Một phụ nữ Mỹ tham gia chiến dịch Không vận Trẻ em năm 1975 cho rằng, việc đưa trẻ mồ côi Việt ra nước ngoài là giải pháp cuối cùng để bảo đảm các em tiếp tục sống và trưởng thành.
“Tôi luôn nói với những đứa trẻ rằng, mẹ ruột vô cùng yêu thương các con. Tôi khuyên mỗi người nên tìm hiểu về lịch sử Việt Nam. Từ đó, họ sẽ thấu hiểu và thông cảm hơn cho mẹ. Hoàn cảnh chiến tranh, đói nghèo năm xưa buộc những bà mẹ phải đưa ra quyết định đau đớn khi từ bỏ con”, xơ Susan Carol McDonald chia sẻ với phóng viên Zing.vn.
Bà Susan là một trong những y tá Mỹ tình nguyện đến Sài Gòn để chăm sóc trẻ mồ côi vì chiến tranh. Xơ bắt đầu làm việc tại cô nhi viện New Heaven từ tháng 5/1973. Khi đó, Susan 28 tuổi.
Lựa chọn khó khăn
Tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng khốc liệt vào những năm 1970 của thế kỷ 20. Nhiều ngôi làng bị bom đạn của Mỹ tàn phá, tình trạng đói nghèo và thất nghiệp gia tăng.
“Một số bà mẹ bỏ con ở bệnh viện, trại mồ côi, thậm chí đầu đường, xó chợ. Tôi tin chắc họ vô cùng đau lòng khi phải xa con. Tất cả bà mẹ đều thương yêu đứa con do mình dứt ruột đẻ ra. Tuy nhiên, việc tự nuôi sống bản thân đã là điều khó khăn khi ấy. Do vậy, cho con đi là lựa chọn cuối cùng và tốt nhất cho đứa trẻ mà họ có thể làm”, xơ Susan nói.
Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, xơ Susan cho biết số lượng trẻ sơ sinh trong các cô nhi viện đến hàng nghìn em. Do nguồn thực phẩm ngày càng hạn chế và giá cả leo thang, các y tá chỉ có thể pha nước cơm loãng cho trẻ uống. Vì thiếu chất dinh dưỡng nên nhiều bé nhanh chóng bị bệnh và qua đời.
“Phần lớn trẻ bị nhiễm trùng ở ngực, tiêu chảy hoặc suy dinh dưỡng cấp. Bản thân tôi từng chôn khoảng 40 em bé khi làm việc tại Việt Nam”, bà Susan nhớ lại.
Ngoài việc chăm sóc trẻ, xơ và các đồng nghiệp tích cực tìm gia đình Việt Nam có khả năng nhận nuôi những em bé mồ côi.
“Phần lớn các gia đình cũng đang cưu mang nhiều trẻ bị bỏ rơi khác. Do vậy, chúng tôi tính đến chuyện liên hệ với những phụ huynh ở Mỹ. Nếu các em tiếp tục sống trong cô nhi viện với điều kiện túng thiếu như vậy, không ai có thể bảo đảm tương lai”, xơ Susan kể.
Xơ khẳng định việc gửi trẻ em Việt Nam đến các gia đình nuôi ở nước ngoài không phải giải pháp tốt nhất. “Điều tốt nhất là các em được sống ở Việt Nam. Mọi đứa trẻ có quyền trưởng thành tại quê hương nó sinh ra”.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh chiến tranh, không nhiều gia đình có thể nhận thêm trẻ về nuôi. Trong khi đó, cái chết là tương lai gần như chắc chắn. “Các em phải sống tiếp. Tôi tin rằng những người mẹ đẻ sẽ hiểu cho quyết định này, để con của họ lớn lên trong một gia đình khác chứ không phải bỏ mạng ở cô nhi viện”, xơ Susan giải thích.
Tham gia chiến dịch Babylift
Từ tháng 4/1975, các chuyến bay thương mại nước ngoài không tiếp tục đến Việt Nam. Đại sứ quán Mỹ yêu cầu công dân nước này khẩn trương sơ tán khỏi Sài Gòn. Tuy nhiên, xơ Susan quyết định không đi vội mà nán lại chăm sóc trẻ mồ côi.
“Tôi không ngừng kêu gọi chính phủ Mỹ hỗ trợ đưa các em khỏi Việt Nam. Đó là vấn đề về sự sống và cái chết của bọn trẻ. Tổng thống Gerald Ford sau đó tuyên bố Mỹ sẽ hành động. Ngoài mục đích nhân đạo mà Nhà Trắng đã nói, tôi nghĩ chiến dịch Operation Babylift (Không vận Trẻ em) có thể mang nhiều ý nghĩa khác, như tạo ấn tượng tốt cuối cùng về người Mỹ sau thất bại ở cuộc chiến này”.
Chiến dịch Babylift gây tranh cãi trong chính dư luận Mỹ. Những người phản đối cho rằng, không ai có quyền tách một đứa bé khỏi quê hương ruột thịt, vì điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực khi trẻ trưởng thành ở môi trường xa lạ.
Tuy nhiên, xơ Susan nói: “Tôi chỉ muốn những em bé có cơ hội sống tiếp, để chúng có thể tự quyết định tương lai của mình”.
Ngày 4/4/1975, Mỹ điều máy bay C5A, phi cơ vận tải lớn nhất thời đó, đến Sài Gòn để chở trẻ rời Việt Nam. Xơ Susan và các y tá chỉ chuyển 22 bé khỏe mạnh nhất tại trung tâm lên máy bay.
Vài phút sau khi cất cánh, máy bay rơi ở cánh đồng gần sân bay Tân Sơn Nhất vì hệ thống trục trặc. Khi hay tin dữ, xơ Susan và các đồng nghiệp đến ngay bệnh viện. “Chúng tôi không khóc vì đây không phải là lúc để đau buồn”, bà kể.
Họ đưa những trẻ sống sót về New Heaven để chăm sóc. Chiến dịch Babylift tiếp tục với hàng loạt chuyến bay đáp và cất cánh rời sân bay Tân Sơn Nhất. Máy bay vận tải C-141 chở xơ Susan và khoảng 200 trẻ mồ côi vào ngày 26/4/1975, 3 ngày trước khi người Mỹ hoàn toàn sơ tán khỏi Sài Gòn.
Nỗ lực kết nối trẻ Babylift với quê hương
Sau khi về đến Mỹ và bàn giao trẻ em Việt Nam cho các gia đình đăng ký nhận nuôi, xơ Susan vẫn chưa kết thúc công việc của mình. Bà ghi chú và sắp xếp cẩn thận thông tin, hình ảnh của những em bé mồ côi, duy trì liên lạc với các gia đình có trẻ Babylift. Hiện xơ Susan giữ liên hệ với khoảng 1.000 con nuôi người Việt trên toàn thế giới.
Năm 1985, xơ Susan cho ra mắt sách For Children Cannot Wait. Quyển sách là một trong những mảnh ghép thông tin để trẻ Babylift có thể hiểu về hoàn cảnh năm xưa, từ đó thông cảm với quyết định đau lòng của các bà mẹ khi phải từ bỏ con.
Xơ cũng không ngừng dặn dò những bố mẹ nuôi: “Người lớn cần giúp các em hiểu rằng mẹ ruột vô cùng thương yêu con của họ. Nhưng vì nhiều lý do, như hoàn cảnh nghèo đói, bệnh tật, khiến mẹ không đủ khả năng nuôi chúng. Do vậy, điều tuyệt vời nhất là giúp các em tìm lại gia đình ở Việt Nam”.
Ở tuổi ngoài 70, xơ Susan vẫn đồng hành cùng các nhóm trẻ Babylift, nay đều trưởng thành, trong những chuyến trở về Việt Nam, “để các cháu có thể tận mắt nhìn thấy quê hương tươi đẹp của mình”.
Zing News
- Người Việt ở Biển Chết: Không phải cứ xuống nước là nổi
- Công dân Việt Nam ra nước ngoài: Cần biết cách tự bảo vệ mình
- Những gương mặt gốc Việt tỏa sáng trên sóng truyền hình nước ngoài
- “Baby in the Box”, tấm hình thay đổi cả một đời người
- Chàng trai Việt tạo dựng thương hiệu bánh mì trên đất Mỹ
- Tâm sự người con xa xứ: Giữ trọn nét văn hóa nguồn cội Việt
Trả lời